An toàn sinh học (biosafety) là hệ thống các biện pháp nhằm ngăn ngừa nguy cơ rò rỉ, phát tán, hoặc sử dụng sai mục đích các tác nhân sinh học nguy hiểm, đặc biệt là trong các phòng thí nghiệm nghiên cứu. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, các sự cố sinh học không còn là nỗi lo viển vông mà trở thành mối đe dọa toàn cầu, đặt ra yêu cầu cấp thiết về kiểm soát nghiêm ngặt hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm sinh học.
Việt Nam đã ban hành Luật An toàn sinh học cho sinh vật biến đổi gen (năm 2008) và một số văn bản liên quan như Luật Khoa học và Công nghệ (2013), các quy định về phòng thí nghiệm an toàn cấp độ P1 – P3. Tuy nhiên, từ góc nhìn chuyên gia pháp lý, có thể thấy hệ thống giám sát phòng thí nghiệm sinh học hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn và tiêu chuẩn quốc tế.
Hiện nay, Luật An toàn sinh học chủ yếu tập trung vào sinh vật biến đổi gen, trong khi các vấn đề về quản lý tác nhân sinh học nguy hiểm (như vi khuẩn, virus độc lực cao), giám sát rủi ro sinh học, và phân loại sự cố phòng thí nghiệm vẫn thiếu quy định chi tiết. Nhiều nội dung quan trọng như: quy trình xử lý vi phạm an toàn sinh học, cơ chế báo cáo sự cố, hay tiêu chí phân loại mức độ rủi ro trong nghiên cứu, chưa được luật hóa rõ ràng.
Công tác giám sát phòng thí nghiệm chủ yếu mang tính chất định kỳ, chưa có các hình thức kiểm tra ngẫu nhiên, giám sát độc lập hoặc đánh giá theo tiêu chuẩn quốc tế (ví dụ như WHO Biosafety Manual). Đặc biệt, với các phòng thí nghiệm cấp độ cao như P3, P4 – nơi xử lý các tác nhân nguy hiểm, quy trình giám sát phải nghiêm ngặt và thường xuyên hơn rất nhiều.
Hiện tại, việc cấp phép, quản lý và giám sát các phòng thí nghiệm liên quan đến nhiều cơ quan: Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Y tế, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp... Tuy nhiên, chưa có cơ chế phối hợp hiệu quả, dẫn đến việc chồng chéo, trùng lặp, hoặc bỏ sót trách nhiệm trong quản lý rủi ro sinh học.
Hoạt động giám sát an toàn sinh học đòi hỏi đội ngũ chuyên môn có kiến thức liên ngành: sinh học phân tử, vi sinh, quản lý rủi ro, pháp lý và đạo đức khoa học. Tuy nhiên, hiện đội ngũ thanh tra chuyên ngành chưa đủ mạnh, thiếu năng lực chuyên sâu về đánh giá vận hành phòng thí nghiệm theo chuẩn quốc tế.
Để bảo đảm an toàn sinh học quốc gia, cần triển khai các nhóm giải pháp sau:
Luật cần được sửa đổi theo hướng không chỉ tập trung vào sinh vật biến đổi gen, mà mở rộng sang quản lý rủi ro sinh học toàn diện: từ nghiên cứu cơ bản, ứng dụng y sinh học, tới các hoạt động sử dụng sinh học tổng hợp, công nghệ gene, hoặc lưu giữ tác nhân nguy hiểm.
Cần ban hành bộ tiêu chuẩn quốc gia về an toàn sinh học phòng thí nghiệm, thống nhất với hệ thống phân loại quốc tế (P1–P4), bao gồm quy trình thiết kế, quản lý rủi ro, thiết bị an toàn, ứng phó sự cố, và đánh giá định kỳ.
Đề xuất xây dựng một Trung tâm giám sát an toàn sinh học quốc gia, có chức năng độc lập và liên ngành, đóng vai trò điều phối, cập nhật dữ liệu, phân tích nguy cơ, và hỗ trợ các bộ ngành giám sát hoạt động nghiên cứu có yếu tố nguy cơ sinh học cao.
Cần mở rộng chương trình đào tạo cho các thanh tra viên, cán bộ giám sát phòng thí nghiệm, đảm bảo hiểu rõ quy trình công nghệ, quy phạm đạo đức nghiên cứu và các hệ thống cảnh báo sớm. Đồng thời, ứng dụng các công cụ công nghệ số trong quản lý: camera giám sát, cảm biến môi trường, nền tảng dữ liệu tập trung.
Từ góc nhìn chuyên gia, có thể khẳng định rằng an toàn sinh học trong nghiên cứu không đơn thuần là một vấn đề kỹ thuật, mà là một phần của hệ sinh thái an ninh quốc gia và y tế cộng đồng. Những lỗ hổng trong giám sát phòng thí nghiệm có thể dẫn đến hậu quả khôn lường – không chỉ về sức khỏe cộng đồng mà cả chính trị – kinh tế – xã hội. Việc hoàn thiện khung pháp lý và tăng cường kiểm soát là nhiệm vụ cấp thiết trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh nghiên cứu công nghệ sinh học và hội nhập khoa học toàn cầu.
Nguồn: Luật An toàn sinh học (2008); WHO Laboratory Biosafety Manual (2020); Bộ Khoa học và Công nghệ (2023); OECD Biosecurity Guidance (2022).
GS Nguyễn Cửu Khoa dùng công nghệ nano hóa dược chất trong thuốc y học cổ truyền, giúp tăng hiệu quả, giảm thời gian điều trị so với thuốc đông y truyền thống
Sử dụng kho dữ liệu hàng trăm triệu từ, nhóm nhà khoa học tại TP HCM xây dựng thành công hệ thống ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) chuyển chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ
Ngày 31/03/2025, tại Trường Đại học Đại Nam, TS. Nguyễn Văn Sườn (Thượng toạ Thích Thiện Xuân) – Chủ tịch Viện Khoa học và Bổ trợ pháp lý – đã tham dự và trình bày tham luận tại Hội thảo quốc tế “Thúc đẩy đổi mới và phát triển: Kết nối các nguyên tắc để tạo ra tác động toàn cầu”. Bài tham luận với chủ đề vận dụng giá trị nhân văn của Phật giáo vào giáo dục đại học đã nhận được sự quan tâm sâu sắc từ đại biểu trong và ngoài nước